Cây Bần có tên khoa học là Sonneratia caseolaris (L.) Engl, thuộc họ Bần (Sonneratiaceae). Cây còn có tên gọi khác là Bần sẻ, Bần chua, Hải đồng. Thảo dược này chủ yếu được dùng trong kinh nghiệm dân gian chữa các vết thương bầm tím ngoài, có thể giảm ho, diệt giun. Bài viết dưới đây sẽ cung cấp thêm thông tin về công dụng và cách dùng của loài cây này.
Bần là loài thực vật thân gỗ, chiều cao trung bình từ 4 - 5m hoặc hơn. Thân phân chia thành nhiều cành, cành non thường phân thành nhiều đốt phình to, màu đỏ. Không giống với các loại cây thân gỗ khác, chất gỗ của cây bần bở và xốp nên hầu như không được sử dụng để làm vật dụng sinh hoạt.
Rễ thở tập trung thành khóm ở quanh gốc thân, mọc ngập sâu vào bùn. Lá mọc đối xứng, phiến lá có hình trái xoan hoặc hình mũi mác, gốc thuôn, đầu tù, phiến dày và dai, rất giòn. Cuống lá và phần gân chính ở gốc có màu đỏ.
Hoa màu trắng, mọc đơn độc ở ngọn thân hoặc kẽ lá, cuống hoa ngắn và mập, mặt ngoài màu lục, mặt trong màu tím hồng.
Quả mọng, hình cầu, dẹt, có mũi thuôn nhọn ở đầu. Toàn cây nhẵn.
Mùa hoa: tháng 3 - 5; mùa quả: tháng 8 - 10.
Bộ phận dùng của cây Bần chủ yếu là quả, vỏ, thân và cành.
Cây Bần chỉ sống được ở những rừng ngập mặn có khí hậu nhiệt đới. Loài thực vật này có nguồn gốc từ các nước Đông Nam Á và Nam Á nhưng hiện nay đã được di thực ở nhiều khu vực trên thế giới như Châu Đại Dương, Châu Phi và Châu Á.
Ở nước ta, Bần mọc nhiều ở các tỉnh ven biển từ Hải Phòng đến Cà Mau nhưng tập trung nhiều nhất ở khu vực Tây Nam Bộ. Để thích nghi với điều kiện đất bùn nhão và thường xuyên bị ngập nước, cây có hệ thống rễ thở mọc trồi lên khỏi mặt đất. Bần phát triển mạnh ở khu vực rừng ngập mặn, giúp tạo ra hàng rào vững chắc nhằm chắn sóng và bảo vệ vùng đất ngập nước ở ven biển.
Cây Bần chứa thành phần hóa học, bao gồm:
Theo Đông y, lá Bần có vị chát, tính mát, quả có vị chua, tính mát, có tác dụng tiêu viêm và giảm đau, lá có tác dụng chữa bí tiểu tiện và cầm máu.
Theo các nghiên cứu, chiết xuất từ cây Bần có tác dụng chống oxy hóa, kháng khuẩn. Ngoài ra, thành phần trong cây còn ức chế enzyme acetylcholinesterase - là enzyme có tác dụng làm ngưng hoạt động của chất dẫn truyền thần kinh. Vì vậy vị thuốc này có tác dụng ngăn chặn phát triển bệnh Alzheimer.
Bần hiện chỉ mới được sử dụng theo kinh nghiệm dân gian là chủ yếu. Lá Bần giã nát với ít muối, đắp tại chỗ có tác dụng chữa vết thương bầm tím do đụng dập. Ngoài ra quả lúc còn xanh có vị chua, dùng tăng mùi vị cho bột cari, còn lúc chín có mùi vị giống bơ, có thể ăn tươi hoặc nấu chín. Dược liệu còn được sử dụng nhiều ở các nước, cụ thể:
Quả và lá Bần. Giã nát rồi đắp vào vùng bụng dưới.
Quả non rửa sạch, giã nát và đắp lên vùng sưng tấy. Có thể dùng băng cố định và thay 1 lần/ ngày.
Chú ý: Quả Bần có vị chua nên tránh ăn khi bụng đói và cần thận trọng khi dùng cho bệnh nhân bị viêm loét dạ dày tá tràng.
Bần không chỉ là loài cây được trồng để giữ đất mà còn được nhân dân sử dụng như một vị thuốc chữa bệnh và chế biến món ăn. Tuy cây Bần là dược liệu chứa ít độc nhưng khi sử dụng cũng cần lưu ý về liều lượng để mang lại hiệu quả tốt nhất.
Bác sĩ Phạm Thị Linh
Link nội dung: https://cmp.edu.vn/cay-ban-a27251.html